Kháng nghị Bản án sơ thẩm có nhiều sai phạm


 
Ngày 05/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành kháng nghị phúc thẩm số 15/QĐ-VKS-P7 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2018/HS-ST các ngày 05, 06 và 07 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đề nghị hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với 03 bị cáo để điều tra, truy tố và xét xử lại về các tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”; sửa Bản án sơ thẩm nêu trên về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tội danh và mức hình phạt đối với 14 bị cáo khác, trong vụ án Đoàn Văn Tước cùng đồng phạm, phạm các tội “Đánh bạc”“Tổ chức đánh bạc” theo khoản 2 Điều 248 và khoản 1 Điều 249 BLHS 1999.
Vào tháng 9 năm 2017, Đoàn Văn Tước, Đỗ Văn Long, Trần Văn Hà, Trần Văn Tính và Phùng Văn Nhân cùng Mai Thị Phương, Nguyễn Phương Duy, Cao Xuân Anh, Văn Đức Cương, Phạm Văn Hải và các đối tượng khác cùng nhau tổ chức sòng bạc nhằm thu lợi bất chính. Tước cùng Nguyễn Phương Duy mỗi người góp số tiền là 50.000.000 đồng để tổ chức sòng bạc và làm cái xóc đĩa, cái SenKo đánh bạc với các con bạc, sau khi trừ chi phí việc tổ chức sòng bạc, Tước và Duy sẽ chia nhau số tiền thắng thua. Các bị cáo bàn bạc, thỏa thuận phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể trong việc tổ chức sòng bạc.
Khoảng 09h00’ ngày 28/9/2017, Nguyễn Phương Duy, Cao Xuân Anh và Lê Thanh Duy cùng đi đến Công ty TNHH một thành viên Hậu cần An Tâm Đắk Lắk (Công ty An Tâm) tại địa chỉ: Thôn 4, xã EaTu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (thường gọi là khách sạn Hiệp Phúc Ban Mê) để thỏa thuận với Hồ Duy Nghĩa về việc thuê tầng hầm của Công ty An Tâm để tổ chức đánh bạc, thì Nghĩa đồng ý và thỏa thuận giá mỗi lần tổ chức sòng bạc là 4.000.000 đồng, số tiền này Nghĩa sẽ nhận sau khi tổ chức đánh bạc xong. Đến khoảng 21h00’ cùng ngày, bị cáo Tước và Long chuẩn bị các công cụ dùng để đánh bạc. Dương dùng xe ô tô chở các đối tượng đi đến Công ty An Tâm để tổ chức sòng bạc. Phạm Văn Hải, Huỳnh Văn Nhung và Hồ Trọng Tài điều khiển xe ô tô để chở các con bạc đến sòng bạc.
Đoàn Văn Tước, Đỗ Văn Long, Phùng Văn Nhân, Đỗ Văn Long, Trần Văn Hà, Trần Văn Tính, Phạm Văn Hải, Văn Đức Cương, Huỳnh Văn Nhung, Phùng Văn Nhân, Mai Thị Phương phân công nhiệm vụ, tổ chức cho 24 con bạc và một số đối tượng khác (chưa xác định nhân thân, lai lịch) đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa thắng thua bằng tiền, với 02 hình thức chơi chẵn - lẻ và Senko.
Các bị cáo đánh liên tục từ khoảng 22h00’ ngày 28/9/2017 đến 00h45’ ngày 29/9/2017, thì bị lực lượng Công an TP.Buôn ma Thuột phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại sòng bạc 35.410.000 đồng và 57.720.000 đồng trên người các con bạc sử dụng để đánh bạc (tổng cộng là 93.130.000 đồng) cùng nhiều công cụ, phương tiện mà các bị cáo đã dùng để đánh bạc và tổ chức đánh bạc.
Bản án sơ thẩm nêu trên đã có những sai lầm nghiêm trọng sau:
1. Cấp sơ thẩm còn bỏ lọt tội phạm. Cụ thể:
Tại Biên bản phạm tội quả tang ngày 29/9/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột; lời khai của các bị cáo Đoàn Văn Tước, Đỗ Văn Long, Phùng Văn Nhân, Trần Văn Hà, Văn Đức Cương và Mai Thị Phương (là nhóm phạm tội “Tổ chức đánh bạc”) tại Cơ quan điều tra đều thể hiện: bị cáo Tước là người khởi xướng và rủ các bị cáo còn lại đi từ miền Bắc vào Buôn Ma Thuột để lập sòng bạc nhằm thu lợi bất chính, đồng thời Tước cũng là người trực tiếp đánh bạc với các con bạc tại sòng, thì các bị cáo cùng đồng ý. Tại sòng bạc đêm ngày 28/9/2017, ban đầu bị cáo Long là người cầm cái xóc đĩa, khoảng 15 phút sau đó chuyển cho bị cáo Tước xóc đĩa; sau đó các bị cáo Nhân, Long và Hà làm cái ở 03 bàn Senkô đặt trong sòng bạc và giúp Tước chung chi tiền thắng thua với các con bạc. Số tiền thắng, thua tại các bàn Senkô đều đưa về cho Tước. Bản thân bị cáo Long còn thừa nhận trước khi bị cáo cầm cái bàn Senkô, thì bị cáo Tước có đưa cho bị cáo 5.000.000 đồng để chung chi. Quá trình làm cái Senkô, bị cáo đã bị thua khoảng 3.000.000 đồng.
Như vậy, hành vi đánh bạc của các bị cáo Đỗ Văn Long, Phùng Văn Nhân và Trần Văn Hà là đã rõ, nhưng cấp sơ thẩm chỉ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo về một tội “Tổ chức đánh bạc” là thiếu sót.
2. Về việc áp dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ,  vợ, chồng, con của liệt sĩ”, theo điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015:
Bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 cho các bị cáo: Trần Văn Hà, Phùng Văn Nhân, Trần Văn Tính, Phan Văn Hùng, Trần Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Tiến và Trương Hoàng Chung. Qua nhận định của bản án sơ thẩm và hồ sơ vụ án, cho thấy:
- Bị cáo Trần Văn Hà có bố đẻ là Trần Văn Sơn là Liệt sỹ;
- Bị cáo Phùng Văn Nhân từng tham gia quân đội xuất ngũ, có bố đẻ là ông Phùng Văn Nhí được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến;
- Bị cáo Trần Văn Tính từng tham gia quân đội xuất ngũ, anh trai bị cáo là Trần Văn Từ là liệt sỹ, mẹ là Nguyễn Thị Hiền được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến;
- Bị cáo Phan Văn Hùng có bố là Phan Huy Lương được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất;
- Bị cáo Trần Thị Thanh Vân có bố là Trần Ngọc Anh là Thương binh hạng 2/4;
- Bị cáo Nguyễn Thị Tiến có bố là Nguyễn Thoại được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến;
- Bị cáo Trương Hoàng Chung có bố là Trương Xuân Khôi được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Như vậy, cả 07 bị cáo trên, không có ai thuộc diện người có công với cách mạng theo Điều 2 Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng năm 2005 và chỉ duy nhất bị cáo Trần Văn Hà là có đủ điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015, vì có bố đẻ là liệt sỹ; còn lại các bị cáo Phùng Văn Nhân, Trần Văn Tính, Phan Văn Hùng, Trần Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Tiến và Trương Hoàng Chung không đủ điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ này, mà chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 hoặc khoản 2 Điều 46 BLHS 1999.
Vì vậy, bản án sơ thẩm đã áp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 cho các bị cáo Phùng Văn Nhân, Trần Văn Tính, Phan Văn Hùng, Trần Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Tiến và Trương Hoàng Chung là không đúng, cần áp dụng lại cho phù hợp.
3. Đánh giá không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội “Đánh bạc” của bị cáo Đoàn Văn Tước, dẫn đến tuyên mức hình phạt nhẹ và cho 13 bị cáo được hưởng án treo là không thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Cụ thể:
- Bị cáo Đoàn Văn Tước: Bị cáo là người chủ mưu, cầm đầu nhóm tổ chức đánh bạc và là người trực tiếp cầm cái đánh với các con bạc khác, phạm cùng lúc 02 tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”. Số tiền sử dụng để đánh bạc của bị cáo là 70.000.000 đồng, cao nhất trong cả sòng bạc; bị cáo chỉ có các tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” và “gia đình có công với cách mạng” (có chú ruột là Liệt sỹ), theo khoản 1, 2 Điều 46 BLHS 1999. Nhưng án sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo Tước 02 năm tù, về tội “Đánh bạc” là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và không công bằng với tất cả các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” còn lại trong vụ án.
- Các bị cáo Trần Văn Tính, Phạm Văn Hải, Mai Thị Phương phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; bị cáo Hồ Duy Nghĩa phạm tội “Gá bạc” là những người tham gia tổ chức sòng bạc, cho thuê địa điểm là khu vực rộng lớn, có tổ chức canh gác, xe đưa đón để tổ chức sòng bạc có quy mô rất lớn, thể hiện tính chất tinh vi; các bị cáo  Trần Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Hồng, Trà Thị Anh Thi, Lê Thị Tuyết Trinh, Nguyễn Khắc Đức, Hoàng Thị Thu Thảo, Lê Thị Hạnh, Lâm Thị Hương và Nguyễn Văn Mạnh là những người tham gia đánh bạc tích cực cùng đồng bọn, với tổng số tiền đánh bạc của cả sòng là 93.130.000 đồng, thuộc khoản 2 Điều 248 BLHS 1999, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Đặc biệt, các bị cáo Phạm Văn Hải, Mai thị Phương, Hồ Duy Nghĩa, Nguyễn Thị Hồng, Trà Thị Anh Thi, Lê Thị Tuyết Trinh, Hoàng Thị Thu Thảo, Lê Thị Hạnh chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Thế nhưng, án sơ thẩm cho các bị cáo trên được hưởng án treo là không đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; không thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và không đúng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP, ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về áp dụng án treo./.
Tác giả: 
Nguồn tin: 
 

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Ngọc Trâm

Nguồn tin: Phòng 7 VKSND tỉnh