Đề nghị giám đốc thẩm hủy bản án không có căn cứ pháp luật

Ngày 27/9/2018, VKSND tỉnh Đắk Lắk báo cáo đề nghị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị Giám đốc thẩm bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đắk Lắk đối với vụ án Hoàng Đức Minh phạm tội “Đánh bạc” theo hướng hủy bản án phúc thẩm.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Khoảng 21 giờ ngày 26/02/2018, tại số 16A, đường 14B, thôn 4, xã Hòa Thuận, Tp. Buôn Ma Thuột, Hoàng Đức Minh và hơn 10 đối tượng khác cùng rủ nhau đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa, ăn thua được bằng tiền mặt. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang, thu giữ số tiền 23.800.000 đồng (qua điều tra đã chứng minh được đây là số tiền dùng để đánh bạc) cùng các vật dụng liên quan.

Bản án hình sự sơ thẩm số 158/2018/HSST ngày 28/6/2018 của TAND Tp. Buôn Ma Thuột áp dụng khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Hoàng Đức Minh 01 năm tù về tội “Đánh bạc”; áp dụng các điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, 2; các điểm a, b, c khoản 3 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy 01 chén sứ bị vỡ, 01 đĩa sứ, 04 con vị, 01 chiếc chiếu, 01 chiếc kéo, 01 bộ bài Tú lơ khơ, 01 lá bài bị cắt; tịch thu sung quỹ Nhà nước ½ giá trị căn phòng (7.765.700 đồng) đã sử dụng đánh bạc.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên phạt 10 bị cáo khác cùng về tội danh “Đánh bạc”, tuyên xử lý các vật chứng khác, tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/7/2018 bị cáo Hoàng Đức Minh có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Bản án hình sự phúc thẩm số 288/2018/HSPT, ngày 11/9/2018 của TAND tỉnh Đắk Lắk đã căn cứ các điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 điểm a khoản 1 Điều 358 BLTTHS năm 2015 tuyên: Hủy một phần bản án sơ thẩm số 158/HSST ngày 28/6/2018 của TAND Tp. Buôn Ma Thuột về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo Hoàng Đức Minh, giao hồ sơ cho VKSND Tp. Buôn Ma Thuột truy tố bổ sung tội “Tổ chức đánh bạc” và xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.

Xét thấy:

Việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đánh giá cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội “Tổ chức đánh bạc” đối với bị cáo Hoàng Đức Minh là không có căn cứ. Bởi lẽ: qua tài liệu điều tra đã được kiểm chứng tại 02 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, thì bị cáo Minh và các bị cáo khác đều khẳng định: các bị cáo đến nhà Minh chơi, sau đó cùng rủ nhau đánh bạc, còn bị cáo Minh không phải là người chủ động rủ rê, lôi kéo; bị cáo cũng không tiến hành phân công người canh gác cũng như có các hoạt động khác để phục vụ và duy trì cho sòng bạc hoạt động. Trong vụ án này, mặc dù bị cáo có hành vi sử dụng nhà ở của mình, cắt các con vị, lấy đĩa, chén làm công cụ để đánh bạc nhưng chỉ để nhằm phục vụ cho chính việc đánh bạc của bị cáo với các con bạc khác, bị cáo không thu tiền xâu hay có thu lợi bất chính gì khác. Vì vậy, cấp sơ thẩm chỉ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với bị cáo Hoàng Đức Minh, về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 BLHS là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật. Việc Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội “Tổ chức đánh bạc” của bị cáo Hoàng Đức Minh và hủy án sơ thẩm là không có căn cứ.

Ngoài ra, bản án hình sự phúc thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; khoản 1 Điều 358 BLTTHS 2015, tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm số 158/HSST ngày 28/6/2018 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo Hoàng Đức Minh, giao hồ sơ cho VKSND Tp. Buôn Ma Thuột để truy tố bổ sung tội “Tổ chức đánh bạc” và xét xử lại theo đúng quy định pháp luật là không đúng quy định của bộ luật tố tụng hình sự, bởi lẽ: Theo quy định tại các điểm c và d khoản 1 Điều 355 BLTTHS, thì khi có căn cứ, HĐXX phúc thẩm chỉ được hủy án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại hoặc hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ khởi tố vụ án, điều tra và truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc”, mà không khởi tố vụ án hình sự về tội “Tổ chức đánh bạc”. Do vậy, Tòa án phúc thẩm tuyên hủy án, nhưng giao hồ sơ cho VKSND Tp. Buôn Ma Thuột để truy tố bổ sung đối với bị cáo Hoàng Đức Minh, về tội “Tổ chức đánh bạc” để xét xử lại là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 355 BLTTHS và không thể thực hiện được./.
 

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Ngọc Trâm

Nguồn tin: Phòng 7 VKSND tỉnh